Phật pháp ứng dụng Cái đuôi chó xoắn ruột gà

Ngày xưa, có một anh rất nghèo, cùng quẫn đến mức không tiền mua vật thực để sống lây lất với vợ con dưới mái tranh xơ xác.

Ngày kia, đang lúc than van số phận hẩm hiu cùng vợ, anh ta sực nhớ có nghe ông bà thuật rằng: “Ai có phước nhờ thần linh phò trợ thì được cấp vô số bạc tiền”. Do đó, anh bèn thành tâm cầu Trời khấn Phật ban cho cái phúc hy hữu. Khấn vái xong, anh bèn cất bước ra đi khỏi làng, lang thang cùng rừng khắp núi.

Rồi một buổi sáng nọ, bước chân đưa anh ta đến gần một động đá cheo leo dựa triền non, kề bên một vực thẳm. Một dị nhân đang ngồi luyện phép. Anh ta sụp lạy lia lịa. xin ban cho mình một vị Thần linh. Thấy lạ, dị nhân mới hỏi cớ sự.

Bạch Thầy! con xin thỉnh một vị Thần linh, mong thầy thương xót mà ban cho ân huệ đó.

Người chớ khá nghĩ đến chuyện ấy! Trở về đi! Bữa sau anh nghèo lại tìm đến than van, quỳ lạy dị nhân, cố sức nài nỷ cho được một vị thần linh. Chung cuộc bị quấy rầy quá, tham thiền không được, dị nhân buộc lòng phải nhận lời thỉnh cầu và nói rằng:

Thôi, ta cho ngươi phép này! Hễ đọc câu thần chú của ta truyền thì Thần linh hiển hiện và thi hành mọi việc ngươi xin. Nhưng ngươi phải nhớ kỹ lời ta dặn mới được! Là các Thần linh thì hung tợn lắm. Phải cắt việc cho Thần linh mãi mãi thì người mới yên thân, nhược bằng không có việc để cho Thần ở không, thì Thần vật ngươi lập tức.

Bạch Thầy, việc đó không sao cả. Tôi sẽ cậy Thần làm việc suốt đời không hết.

Xong đâu đó, anh ta quay trở xuống núi, băng vô rừng sâu, lập đi lập lại câu thần chú cho thuộc lòng. Nào ngờ thình lình một vị Thần hiển hiện trước mắt. Thần khổng lồ, hình thù dữ tợn, quát lớn rằng:

Ta là Thần linh! Phải cắt việc lập tức! Ðể ta rỗi, ta nuốt sống ăn tươi một tòa cung điện!

Xong cả!

Ðem vàng bạc đây!

Ðủ hết rồi đó!

Phá rừng này dựng lên một đô thị!

Ðã hoàn thành!

Ðến đây chàng ta phát sợ, run cầm cập, nghĩ thầm: “Biết cắt việc chi bây giờ? Làm như nháy mắt, ai xây trở lại cho kịp”.

- Cắt việc cho mau! Không thì ta nuốt sống!

Chàng ta hoảng hốt, không việc chi mà cắt, tức tốc chạy nhào lên động đá,quỳ lạy dị nhân, cầu xin cứu mạng.

Chuyện chi vậy?

Bạch Thầy, thần lẹ quá. Không còn việc đòi nuốt tôi.

Chàng ta vừa dứt lời thì Thần hiện đến ngay, toan nuốt sống, làm gã kinh hồn, chạy núp sau lưng dị nhân.

Thôi, ta chỉ cho một cách. Con chó này có cái đuôi xoắn ruột gà. Ngươi lấy dao chặt đuôi nó, giao cho Thần uốn thẳng, mau đi!

Hắn lật đật chặt đuôi chó trao liền cho Thần.-“Kéo ra ngay”. Thần lảnh lấy đuôi chó, rán vuốt cho ngay, rồi buông ra thì xoắn lại như cũ. Thần lại vuốt đuôi chó lần thứ nhì rồi buông ra thì đuôi chó cũng xoắn lại in như lần trước. Làm lại, làm lại mãi, làm như thế ấy trong bao nhiêu lần không kể xiết… sau cùng, Thần bị kiệt sức chịu thua, nói lên rằng:” Bình sinh ta chưa gặp việc nào khó khăn như vầy! ta chẳng phải bất tài, nhưng cậy việc này thì ta chịu thua!”

Cuộc đời nào khác chi cái đuôi chó xoắn rột gà! Ðã bao thế kỷ lần trôi, con người vẫn rán sức uốn cái đuôi chó xoắn lại cho ngay, mà nó không thể nào ngay được cả. Buông ra, nó lại xoắn lại. Trò đời vẫn éo le, tình người vẫn đen bạc, kẻ đi trước phải học lấy bài học kinh nghiệm ấy, rồi người đi sau cũng khinh suất mà sa ngã vào cạm bẫy của dục tình.

Xem thêm:

Cái đuôi chó xoắn ruột gà

Phật pháp ứng dụng Cái đuôi chó xoắn ruột gà

Ngày xưa, có một anh rất nghèo, cùng quẫn đến mức không tiền mua vật thực để sống lây lất với vợ con dưới mái tranh xơ xác.

Ngày kia, đang lúc than van số phận hẩm hiu cùng vợ, anh ta sực nhớ có nghe ông bà thuật rằng: “Ai có phước nhờ thần linh phò trợ thì được cấp vô số bạc tiền”. Do đó, anh bèn thành tâm cầu Trời khấn Phật ban cho cái phúc hy hữu. Khấn vái xong, anh bèn cất bước ra đi khỏi làng, lang thang cùng rừng khắp núi.

Rồi một buổi sáng nọ, bước chân đưa anh ta đến gần một động đá cheo leo dựa triền non, kề bên một vực thẳm. Một dị nhân đang ngồi luyện phép. Anh ta sụp lạy lia lịa. xin ban cho mình một vị Thần linh. Thấy lạ, dị nhân mới hỏi cớ sự.

Bạch Thầy! con xin thỉnh một vị Thần linh, mong thầy thương xót mà ban cho ân huệ đó.

Người chớ khá nghĩ đến chuyện ấy! Trở về đi! Bữa sau anh nghèo lại tìm đến than van, quỳ lạy dị nhân, cố sức nài nỷ cho được một vị thần linh. Chung cuộc bị quấy rầy quá, tham thiền không được, dị nhân buộc lòng phải nhận lời thỉnh cầu và nói rằng:

Thôi, ta cho ngươi phép này! Hễ đọc câu thần chú của ta truyền thì Thần linh hiển hiện và thi hành mọi việc ngươi xin. Nhưng ngươi phải nhớ kỹ lời ta dặn mới được! Là các Thần linh thì hung tợn lắm. Phải cắt việc cho Thần linh mãi mãi thì người mới yên thân, nhược bằng không có việc để cho Thần ở không, thì Thần vật ngươi lập tức.

Bạch Thầy, việc đó không sao cả. Tôi sẽ cậy Thần làm việc suốt đời không hết.

Xong đâu đó, anh ta quay trở xuống núi, băng vô rừng sâu, lập đi lập lại câu thần chú cho thuộc lòng. Nào ngờ thình lình một vị Thần hiển hiện trước mắt. Thần khổng lồ, hình thù dữ tợn, quát lớn rằng:

Ta là Thần linh! Phải cắt việc lập tức! Ðể ta rỗi, ta nuốt sống ăn tươi một tòa cung điện!

Xong cả!

Ðem vàng bạc đây!

Ðủ hết rồi đó!

Phá rừng này dựng lên một đô thị!

Ðã hoàn thành!

Ðến đây chàng ta phát sợ, run cầm cập, nghĩ thầm: “Biết cắt việc chi bây giờ? Làm như nháy mắt, ai xây trở lại cho kịp”.

- Cắt việc cho mau! Không thì ta nuốt sống!

Chàng ta hoảng hốt, không việc chi mà cắt, tức tốc chạy nhào lên động đá,quỳ lạy dị nhân, cầu xin cứu mạng.

Chuyện chi vậy?

Bạch Thầy, thần lẹ quá. Không còn việc đòi nuốt tôi.

Chàng ta vừa dứt lời thì Thần hiện đến ngay, toan nuốt sống, làm gã kinh hồn, chạy núp sau lưng dị nhân.

Thôi, ta chỉ cho một cách. Con chó này có cái đuôi xoắn ruột gà. Ngươi lấy dao chặt đuôi nó, giao cho Thần uốn thẳng, mau đi!

Hắn lật đật chặt đuôi chó trao liền cho Thần.-“Kéo ra ngay”. Thần lảnh lấy đuôi chó, rán vuốt cho ngay, rồi buông ra thì xoắn lại như cũ. Thần lại vuốt đuôi chó lần thứ nhì rồi buông ra thì đuôi chó cũng xoắn lại in như lần trước. Làm lại, làm lại mãi, làm như thế ấy trong bao nhiêu lần không kể xiết… sau cùng, Thần bị kiệt sức chịu thua, nói lên rằng:” Bình sinh ta chưa gặp việc nào khó khăn như vầy! ta chẳng phải bất tài, nhưng cậy việc này thì ta chịu thua!”

Cuộc đời nào khác chi cái đuôi chó xoắn rột gà! Ðã bao thế kỷ lần trôi, con người vẫn rán sức uốn cái đuôi chó xoắn lại cho ngay, mà nó không thể nào ngay được cả. Buông ra, nó lại xoắn lại. Trò đời vẫn éo le, tình người vẫn đen bạc, kẻ đi trước phải học lấy bài học kinh nghiệm ấy, rồi người đi sau cũng khinh suất mà sa ngã vào cạm bẫy của dục tình.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Buổi sớm mùa đông ấy, tiếng guốc của Sudas vang lên một âm thanh mòn mòn, ngái ngủ trên sườn đồi hẻo lánh. Với chiếc gàu tưới trong tay, Sudas rảo bước vừa hát thì thầm, tiến về phía dòng suối dưới chân đồi. Sudas mỉm cười khoan khoái, nghĩ đến những luống hoa đang chờ đợi những giòng nước mát sau một đêm đông dài.

Anh ta đến đây lập nghiệp từ bao giờ, không ai hay biết. Chỉ biết Sudas sống cô độc trên đỉnh đồi, và hoa của Sudas là thứ hoa tốt nhất vùng, có thể làm thỏa mãn những khách hàng đài cát nhất.

Đồi hoa của Sudas ở biệt lập, suốt năm không hề một du khách đặt chân. Và thành thị gặp Sudas mỗi tuần một bận, khi anh đem hoa bán để đổi lấy những nhu cầu cần thiết. Ngoài những hôm ấy ra, quanh năm thui thủi trên ngọn đồi vắng vẻ, Sudas sống một cái đời ở ngoài cuộc đời.

Ngày ngày chăm bón những luống hoa, sáng tưới nước, trưa che nắng, chiều bắt sâu, Sudas tự mãn với công việc ấy. Để hoa tốt, tốt để làm gì, để bán. Bán để làm gì, để mua lương thực, để làm gì nữa?... Rủi thay và may thay, Sudas chẳng bao giờ tự đặt những câu hỏi ấy. Đầu óc giản dị của anh ta chỉ chú tâm đến một việc: trồng hoa, Sudas sống không vui không buồn, không sở thích, không đam mê. Hoa của anh là cứu cánh vừa là phương tiện. Những luống hoa anh đã chăm bón hằng ngày với tất cả trìu mến và say sưa, đến cuối tuần cũng chính anh ta sẽ cắt hoa bó thành bó để đem xuống thành thị làm vật đổi chác. Rồi một thế hệ hoa mới lại được nâng niu và sẽ cùng chung số phận như những luống hoa đã đi qua…

Sudas đứng dừng lại bên bờ suối. Mặt nước xao động, và những gợn sóng như những bàn tay mềm đang từ từ xóa những dấu chân Sudas in trên cát. Chưa bao giờ mặt nước ban mai lại xao động như hôm nay. Sudas khẽ rùng mình linh tính báo cho anh ta một việc gì khác thường sắp xảy đến. Lập tức, Sudas vụt vội gàu nước xuống suối để lấy nước. Nước băng giá tung toé vào mặt, vào tay anh. Sudas không kịp cảm thấy giá buốt. Anh nóng lòng muốn lấy lại cái luống hoa và vội rảo bước lên đồi. Lá úa phủ đầy lối đi, và cây cỏ phô bày bộ xương thiểu não của mùa đông. Đêm qua hẳn gió thổi nhiều, và biết đâu lại không có bão táp. Bão, Sudas giật mình bước chân lên đồi hoa. Nhưng kìa! Đã đến chân đồi, mà sao nhưng giò hoa thắm sắc vẫn mất hút tăm dạng? Sudas hoảng hốt bước lên thì…Chao ôi! Cả một vùng hoa đã bẹp nát dưới bùn lầy, không còn lấy một giỏ hoa tươi tốt. Đêm qua đã có bão thật rồi! Cả một sự nghiệp đổ nát, một công trình tan vỡ! Thiên nhiên đã phá mất của ta tất cả lẽ sống còn. Thẫn thờ, thiểu não, Sudas bước những bước chếnh choáng xuống sườn đồi thoai thoải. Anh ngỡ mình đang ở trong một cơn mơ không lành. Có lẽ nào! Những luống hoa tươi vừa mới hôm qua đầy hứa hẹn một buổi chợ đắt hàng, thế mà chỉ qua một đêm…Sudas quay lui và nhìn lại một lần cuối để biết chắc rằng mình không mơ: Đây, ở nơi đã vươn lên nhưng chồi hoa mập mạnh, bây giờ là một khung trời mờ nhạt, lạnh lùng…


Phật pháp ứng dụng Ánh mắt từ bi

Sudas xuống đồi đi lang thang, lòng buồn hơn cả trời đông. Men theo dòng suối, anh đi mãi không mục đích và mặc cho ngọn gió buốt làm cho tay và mặt anh tê cóng, anh đã đến biên giới của miền hoang vu. Qua một cổng thành, anh sẽ bước vào một thế giới của đô thị náo nhiệt. Sudas dừng chân, hoang mang. Nhưng lạ kỳ chưa, dưới chân thành, trong hồ sen tàn úa của tuyết đông, anh bỗng bắt gặp một đóa sen tàn úa của tuyết đông, anh bỗng bắt gặp một đóa sen đang vươn lên, đơn chiếc. Đóa hoa trắng muốt và to lớn một cách dị thường. Anh chưa hề thấy một bông sen to như thế cả đến trong những mùa sen nở. Thế mà giờ đây, đang giữa mùa đông, đóa hoa vương giả ấy lại xuất hiện trong một hồ sen công cộng! Sudas mừng rỡ lội xuống hồ bẻ. Anh cầm chiếc hoa sen đi ra cổng thành, định bán để mua một ít đồ ăn lót dạ. Nhưng bỗng Sudas chóa mắt khi thấy bao nhiêu người đều đổ xô đến anh ta và tranh giành nhau để mua đóa hoa. “Ta phải bán nó với một giá thật đắt” Sudas nhủ thầm trong khi khách mua mỗi lúc một đông và giá trả đang lên như diều gặp gió. Sudas làm cao từ chối tất cả các khách hàng: - “Không bán cho ai hết, tôi sẽ đem bán cho nhà vua”.

Khách mua lảng xa, bằng lòng nhường để bán cho nhà vua vì họ đều biết rằng vua cũng sẽ mua đóa hoa quý ấy để cúng dường đức Phật đang thuyết phát trong vùng.

Sudas đi đến kinh thành, nhưng một hành khách sang trọng dừng bước, anh ta đòi mua cho kỳ được đóa hoa với một giá chưa từng có: hai trăm quan tiền vàng. Sudas gần muốn điên lên vì sung sướng. Hai trăm quan! Cả một đồi hoa tươi tốt của anh ta cũng chưa bao giờ bán được với giá ấy. Và vì lòng tham không hề lùi bước, anh ta quyết đem bán cho nhà vua thật. Nhưng Sudas không phải nhọc công đi vào kinh thành, vì kìa, đức vua đã ngự đến. Vẻ giản dị của ngài vẫn không làm giảm cốt cách cao sang. Ngài dừng lại, ôn tồn bảo hành khách:

Này du khách, ngươi có thể nhường cho ta mua đóa hoa này chăng? Để ta đem đến dâng cúng đức Thế Tôn.

Cũng như những người mua trước, du khách bằng lòng và bỏ tiền vào túi rồi rảo bước. Nhà vua nói với Sudas:

Ngươi sẽ bán đóa hoa cho ta với giá gấp đôi giá hành khách kia đã trả, được chứ? Sudas ngẫm nghĩ: Đức Thế Tôn là ai? Nhưng chắc hẳn phải là cao sang và giàu có hơn nhà vua này. Thế nên mọi người, cả đến nhà vua, mới hăm hở mua hoa để dâng ngài như thế. Tại sao ta lại không bán cho chính Đức Thế Tôn ấy? Ta sẽ giàu to chuyến này!

Và Sudas từ chối nhà vua:

Tâu ngài, tôi sẽ đem hoa này bán cho Đức Thế Tôn. Xin ngài vui lòng chỉ dẫn tôi, ông ấy hiện ở đâu.

Nhà vua vui lòng chỉ lối đi. Sudas rảo bước về tịnh xá, nơi đức Phật đang tĩnh tọa để đợi giờ thuyết pháp cho Tăng sĩ.

Sudas đã đến cõi thanh bình. Đây là vườn Cấp Cô Độc, người đã cúng Phật khoảnh đất để làm nơi thuyết pháp. Tuy là giữa mùa đông mà lá cây xanh rờn, khắp không trung bàng bạc một mùi hương thanh tịnh. Sudas bỗng lạnh người… Dưới gốc cây, đức Phật đang ngồi, uy nghiêm, chói lọi. Sudas đứng dừng và toan lùi bước. Nhưng đức Thế Tôn đã nhìn thấy Sudas…ánh mắt từ bi! Ôi cả một đại dương tình thương chứa đầy đôi mắt ấy!

Sudas từ từ tiến đến đức Phật, bao nhiêu tham lam hèn hạ đã tan biến đâu mất. Sudas quỳ xuống, một nụ cười hiền dịu nhìn Sudas. Ngài đã biết tận can phế của đứa con yêu và dịu dàng khẽ hỏi:

Con muốn gì nữa? Sudas cúi đầu ấp úng:

Bạch Ngài, con muốn hôn chân Ngài. 

Xem thêm:

Ánh mắt từ bi

Buổi sớm mùa đông ấy, tiếng guốc của Sudas vang lên một âm thanh mòn mòn, ngái ngủ trên sườn đồi hẻo lánh. Với chiếc gàu tưới trong tay, Sudas rảo bước vừa hát thì thầm, tiến về phía dòng suối dưới chân đồi. Sudas mỉm cười khoan khoái, nghĩ đến những luống hoa đang chờ đợi những giòng nước mát sau một đêm đông dài.

Anh ta đến đây lập nghiệp từ bao giờ, không ai hay biết. Chỉ biết Sudas sống cô độc trên đỉnh đồi, và hoa của Sudas là thứ hoa tốt nhất vùng, có thể làm thỏa mãn những khách hàng đài cát nhất.

Đồi hoa của Sudas ở biệt lập, suốt năm không hề một du khách đặt chân. Và thành thị gặp Sudas mỗi tuần một bận, khi anh đem hoa bán để đổi lấy những nhu cầu cần thiết. Ngoài những hôm ấy ra, quanh năm thui thủi trên ngọn đồi vắng vẻ, Sudas sống một cái đời ở ngoài cuộc đời.

Ngày ngày chăm bón những luống hoa, sáng tưới nước, trưa che nắng, chiều bắt sâu, Sudas tự mãn với công việc ấy. Để hoa tốt, tốt để làm gì, để bán. Bán để làm gì, để mua lương thực, để làm gì nữa?... Rủi thay và may thay, Sudas chẳng bao giờ tự đặt những câu hỏi ấy. Đầu óc giản dị của anh ta chỉ chú tâm đến một việc: trồng hoa, Sudas sống không vui không buồn, không sở thích, không đam mê. Hoa của anh là cứu cánh vừa là phương tiện. Những luống hoa anh đã chăm bón hằng ngày với tất cả trìu mến và say sưa, đến cuối tuần cũng chính anh ta sẽ cắt hoa bó thành bó để đem xuống thành thị làm vật đổi chác. Rồi một thế hệ hoa mới lại được nâng niu và sẽ cùng chung số phận như những luống hoa đã đi qua…

Sudas đứng dừng lại bên bờ suối. Mặt nước xao động, và những gợn sóng như những bàn tay mềm đang từ từ xóa những dấu chân Sudas in trên cát. Chưa bao giờ mặt nước ban mai lại xao động như hôm nay. Sudas khẽ rùng mình linh tính báo cho anh ta một việc gì khác thường sắp xảy đến. Lập tức, Sudas vụt vội gàu nước xuống suối để lấy nước. Nước băng giá tung toé vào mặt, vào tay anh. Sudas không kịp cảm thấy giá buốt. Anh nóng lòng muốn lấy lại cái luống hoa và vội rảo bước lên đồi. Lá úa phủ đầy lối đi, và cây cỏ phô bày bộ xương thiểu não của mùa đông. Đêm qua hẳn gió thổi nhiều, và biết đâu lại không có bão táp. Bão, Sudas giật mình bước chân lên đồi hoa. Nhưng kìa! Đã đến chân đồi, mà sao nhưng giò hoa thắm sắc vẫn mất hút tăm dạng? Sudas hoảng hốt bước lên thì…Chao ôi! Cả một vùng hoa đã bẹp nát dưới bùn lầy, không còn lấy một giỏ hoa tươi tốt. Đêm qua đã có bão thật rồi! Cả một sự nghiệp đổ nát, một công trình tan vỡ! Thiên nhiên đã phá mất của ta tất cả lẽ sống còn. Thẫn thờ, thiểu não, Sudas bước những bước chếnh choáng xuống sườn đồi thoai thoải. Anh ngỡ mình đang ở trong một cơn mơ không lành. Có lẽ nào! Những luống hoa tươi vừa mới hôm qua đầy hứa hẹn một buổi chợ đắt hàng, thế mà chỉ qua một đêm…Sudas quay lui và nhìn lại một lần cuối để biết chắc rằng mình không mơ: Đây, ở nơi đã vươn lên nhưng chồi hoa mập mạnh, bây giờ là một khung trời mờ nhạt, lạnh lùng…


Phật pháp ứng dụng Ánh mắt từ bi

Sudas xuống đồi đi lang thang, lòng buồn hơn cả trời đông. Men theo dòng suối, anh đi mãi không mục đích và mặc cho ngọn gió buốt làm cho tay và mặt anh tê cóng, anh đã đến biên giới của miền hoang vu. Qua một cổng thành, anh sẽ bước vào một thế giới của đô thị náo nhiệt. Sudas dừng chân, hoang mang. Nhưng lạ kỳ chưa, dưới chân thành, trong hồ sen tàn úa của tuyết đông, anh bỗng bắt gặp một đóa sen tàn úa của tuyết đông, anh bỗng bắt gặp một đóa sen đang vươn lên, đơn chiếc. Đóa hoa trắng muốt và to lớn một cách dị thường. Anh chưa hề thấy một bông sen to như thế cả đến trong những mùa sen nở. Thế mà giờ đây, đang giữa mùa đông, đóa hoa vương giả ấy lại xuất hiện trong một hồ sen công cộng! Sudas mừng rỡ lội xuống hồ bẻ. Anh cầm chiếc hoa sen đi ra cổng thành, định bán để mua một ít đồ ăn lót dạ. Nhưng bỗng Sudas chóa mắt khi thấy bao nhiêu người đều đổ xô đến anh ta và tranh giành nhau để mua đóa hoa. “Ta phải bán nó với một giá thật đắt” Sudas nhủ thầm trong khi khách mua mỗi lúc một đông và giá trả đang lên như diều gặp gió. Sudas làm cao từ chối tất cả các khách hàng: - “Không bán cho ai hết, tôi sẽ đem bán cho nhà vua”.

Khách mua lảng xa, bằng lòng nhường để bán cho nhà vua vì họ đều biết rằng vua cũng sẽ mua đóa hoa quý ấy để cúng dường đức Phật đang thuyết phát trong vùng.

Sudas đi đến kinh thành, nhưng một hành khách sang trọng dừng bước, anh ta đòi mua cho kỳ được đóa hoa với một giá chưa từng có: hai trăm quan tiền vàng. Sudas gần muốn điên lên vì sung sướng. Hai trăm quan! Cả một đồi hoa tươi tốt của anh ta cũng chưa bao giờ bán được với giá ấy. Và vì lòng tham không hề lùi bước, anh ta quyết đem bán cho nhà vua thật. Nhưng Sudas không phải nhọc công đi vào kinh thành, vì kìa, đức vua đã ngự đến. Vẻ giản dị của ngài vẫn không làm giảm cốt cách cao sang. Ngài dừng lại, ôn tồn bảo hành khách:

Này du khách, ngươi có thể nhường cho ta mua đóa hoa này chăng? Để ta đem đến dâng cúng đức Thế Tôn.

Cũng như những người mua trước, du khách bằng lòng và bỏ tiền vào túi rồi rảo bước. Nhà vua nói với Sudas:

Ngươi sẽ bán đóa hoa cho ta với giá gấp đôi giá hành khách kia đã trả, được chứ? Sudas ngẫm nghĩ: Đức Thế Tôn là ai? Nhưng chắc hẳn phải là cao sang và giàu có hơn nhà vua này. Thế nên mọi người, cả đến nhà vua, mới hăm hở mua hoa để dâng ngài như thế. Tại sao ta lại không bán cho chính Đức Thế Tôn ấy? Ta sẽ giàu to chuyến này!

Và Sudas từ chối nhà vua:

Tâu ngài, tôi sẽ đem hoa này bán cho Đức Thế Tôn. Xin ngài vui lòng chỉ dẫn tôi, ông ấy hiện ở đâu.

Nhà vua vui lòng chỉ lối đi. Sudas rảo bước về tịnh xá, nơi đức Phật đang tĩnh tọa để đợi giờ thuyết pháp cho Tăng sĩ.

Sudas đã đến cõi thanh bình. Đây là vườn Cấp Cô Độc, người đã cúng Phật khoảnh đất để làm nơi thuyết pháp. Tuy là giữa mùa đông mà lá cây xanh rờn, khắp không trung bàng bạc một mùi hương thanh tịnh. Sudas bỗng lạnh người… Dưới gốc cây, đức Phật đang ngồi, uy nghiêm, chói lọi. Sudas đứng dừng và toan lùi bước. Nhưng đức Thế Tôn đã nhìn thấy Sudas…ánh mắt từ bi! Ôi cả một đại dương tình thương chứa đầy đôi mắt ấy!

Sudas từ từ tiến đến đức Phật, bao nhiêu tham lam hèn hạ đã tan biến đâu mất. Sudas quỳ xuống, một nụ cười hiền dịu nhìn Sudas. Ngài đã biết tận can phế của đứa con yêu và dịu dàng khẽ hỏi:

Con muốn gì nữa? Sudas cúi đầu ấp úng:

Bạch Ngài, con muốn hôn chân Ngài. 

Xem thêm:
Đọc thêm..